CHƯƠNG III – TỪ
III. I. Ý NGHĨA CỦA TỪ
Một từ bao giờ cũng có có hai mặt:
- Hình thức – Tức là vỏ âm thanh
- Nội dung – Tức là ý nghĩa
Nội dung của từ là sự phản ánh thực tế khách quan vào ý thức con người. Cho nên ý nghĩa của từ phần lớn đều liên quan đến khái niệm. Như VÀI (trâu) chỉ một loài động vật, PÙ (núi) chỉ một loại vật, KIN PHUỐI (ăn nói, nói năng) chỉ một loại hoạt động của con người, ĐENG (đỏ) chỉ một màu sắc…
Ta gọi ý nghĩa khái niệm trên là ý nghĩa từ vựng của từ. Từ có ý nghĩa từ vựng gọi là từ thực (thực từ). Ngược lại những từ không có ý nghĩa từ vựng gọi là từ hư (hư từ). Từ hư chỉ có ý nghĩa ngữ pháp. Nó được dùng để biểu thị các mối quan hệ ngữ pháp trong câu. Thí dụ:
VẠ (và, với), TỌ (nhưng), XÁU (với, cùng), DỈ…DỈ… (vừa… vừa…), BẤU (không)…
1. XÉT THEO LƯỢNG NGHĨA CỦA TỪ
Xét theo lượng nghĩa của từ chúng ta có thể chia ra thành hai loại: từ một nghĩa và từ nhiều nghĩa.
A. TỪ MỘT NGHĨA
Từ chỉ có một nghĩa duy nhất, thì được gọi là từ một nghĩa. Thí dụ: VÀI (trâu), CA RỘC (con cóc), HINH HỎI (đom đóm), CHUC CHÍ (cù)…
B. TỪ NHIỀU NGHĨA
Một từ bao hàm từ hai nghĩa trở lên gọi là từ nhiều nghĩa. Thí dụ:
PAC:
- Mồm, mỏ, mõm
- Miệng (miệng hố)
- Lưỡi (dao)
- Ngòi (bút)
- Mũi (kim)
KIN:
- Ăn
- Uống
- Hút
PAC dùng để chỉ “mồm, miệng” của con người, cũng được dùng để chỉ “mỏ” của loài chim, “mõm” của loài vật bốn chân… Những nghĩa này đều có một cái chung là chỉ bộ phận dùng để đưa chất dinh dưỡng vào cơ thể. Đây là nghĩa gốc của từ PAC. Về hình dáng, PAC như một cái lỗ, nên được dùng để chỉ “miệng” hố, “miệng” giếng. Về vị trí thì PAC ở phía trước, nên còn dùng để chỉ “lưỡi” của dao, cày, cuốc; “ngòi” của bút và “mũi” nhọn của kim….
Nghĩa gốc thường là nghĩa trung tâm, những nghĩa khác đẻ ra trên cơ sở của nghĩa trung tâm đó. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có liên hệ với nhau theo một quan hệ lô-gic nhất định, tuy rằng những trật tự đó có thể khác nhau tùy theo từng ngôn ngữ.
2. XÉT MỐI QUAN HỆ GIỮA NGHĨA VÀ ÂM
Ta có thể chia ra từ cùng nghĩa và từ cùng âm
A. TỪ CÙNG NGHĨA (cũng gọi là từ đồng nghĩa)
Những từ có hình thức ngữ âm khác nhau, nhưng ý nghĩa giống nhau hay gần giống nhau gọi là từ cùng nghĩa. Thí dụ: DỎM, LÈ, NGÒI, CHIẾM, MỦNG nghĩa là “xem, nhìn”; CÀM, DÁM nghĩa đều là “bước”… Nên chúng là từ cùng nghĩa.
B. TỪ CÙNG ÂM (hay đồng âm dị nghĩa)
Những từ có một hình thức ngữ âm như nhau, nhưng có ý nghĩa khác hẳn nhau, và thông thường giữa các nghĩa đó không có một quan hệ nào cả là từ cùng âm.
Thí dụ:
- XÁ (gác bếp), XÁ (có lỗi), XÁ (cơn “mưa”)
- TÓ (ong bầu), TÓ (đóng “bàn ghế”), TÓ (đối diện)
- TOT (buốt), TOT (“gà” mổ)…
Cũng như từ cùng nghĩa, ta cũng cần xét từ cùng âm trong một ngôn ngữ, cùng một thời đại. Nếu xét về quá trình lịch sử thì trong những từ cùng âm ngày nay, có thể có một số đã từng là từ nhiều nghĩa, nhưng do sự phát triển lâu dài, mối quan hệ giữa các nghĩa của chúng đã bị cắt quãng, gián đoạn.
Chẳng hạn Tiếng Tày – Nùng có hai từ CA 1 (con quạ) và CA 2 (toi “tiếng chửi mắng”), một từ chỉ con vật, một từ để mắng nhiếc (như “con gà toi”, “đồ chết toi”…) có lẽ lúc đầu mượn con quạ để chửi (vì quạ là vật tàn ác, ăn hại, có ý xấu), rồi dần dà CA 2 trở thành một tiếng chửi mắng, không còn liên quan tới “quạ” nữa. Trường hợp ĐAT 1 (rát nóng), ĐAT 2(đau lòng), ĐAT 3 (đốt, ong đốt)…. có lẽ cũng giống như CA vừa kể trên.
3. TỪ TRÁI NGHĨA
Những từ có ý nghĩa trái ngược nhau gọi là từ trái nghĩa. Xem những cặp từ sau:
- ĐÂY (tốt) – LÓA (xấu); CẢI (to, lớn) – ENG (nhỏ, bé)
- KHỬN (lên) – LỒNG (xuống); PÂY (đi) – DÚ (ở)
- CỪN (đêm) – VẰN (ngày); NƯA (trên) – TẨƯ (dưới)
Những từ trái nghĩa thường thấy nhất là loại từ chỉ tính chất hay hình dáng sự vật (như loại 1); thứ đến là loại chỉ hoạt động hoặc diễn biến (như loại 2). Những từ chỉ tên sự vật (như loại 3) cũng có thể có từ trái nghĩa nhau nhưng ít hơn hai loại trên. Cũng cần phân biệt từ trái nghĩa với những từ bị phủ định, như ĐÂY (tốt) với BẤU ĐÂY (không tốt), MJÀNG (nhanh) với BẤU MJÀNG (không nhanh).
Một từ có thể có một hay một số từ trái nghĩa với nó. Thí dụ:
- CẢI (to, lớn) có tới bốn từ trái nghĩa là: ENG (nhỏ), Ỉ (nhỏ, tí), SLÁY (bé), NỌI (ít, bé)
- ĐÂY (tốt) có ba từ trái nghĩa là RẠI (điều không tốt), LÓA (xấu), SLÓI (xấu, tồi).
Những loại từ trên đây đều thể hiện tính giàu có và nhiều vẻ của Tiếng Tày – Nùng. Biết được ý nghĩa của từng từ, từng lớp từ, phân biệt được các sắc thái khác nhau của chúng, sẽ giúp chúng ta diễn đạt được chính xác, tinh tế, sinh động, làm cho ý diễn đạt càng thêm sâu sắc.