Ngữ pháp Tiếng Tày – Nùng – IX: Nhấn mạnh vào một thành phần của câu

CHƯƠNG IX: NHẤN MẠNH VÀO MỘT THÀNH PHẦN CỦA CÂU

Muốn làm nổi bật một thành phần nào đó ở trong câu, để người nghe, người đọc chú ý đến hơn; hoặc muốn cho câu nói thêm mạnh mẽ, chúng ta thường nhấn mạnh vào thành phần đó bằng cách lặp lại hoặc đảo ngược .

I. LẶP LẠI

Cách lặp lại thường gặp hơn cả đưa phần muốn lặp lại lên phía trước, rồi nhắc đến nói ở đằng sau lần nữa, giữa phần lặp lại thường từ LẺ (thì). Nhiều trường hợp người ta dùng đại từ xưng hô để lặp lại danh từ đứng trước . Hiện tượng này thường gặp khi danh từ làm chủ ngữ của câu hoặc làm bổ ngữ của động từ, tính từ.

1. LẶP LẠI CHỦ NGỮ

Lặp lại chủ ngữ tác dụng làm cho người nghe, người đọc chú ý đến sự vật gây ra hoạt động hoặc sự vật mang trạng thái tính chất nào đó. Thí dụ:

2. LẶP LẠI VỊ NGỮ

Hiện tượng lặp lại vị ngữ cũng thường gặp trong Tiếng Tày – Nùng. Để làm nổi bật hoạt động hoặc tính chất của sự vật, người ta thường lặp lại vị ngữ. Giữa vị ngữ được lặp lại thường thường từ LẺ (thì), TỐ (cũng), khi cả bổ ngữ của xen vào giữa. Thí dụ:

3. LẶP LẠI BỔ NGỮ

Bổ ngữ được lặp lại thường bổ ngữ chỉ đối tượng bị hành động chi phối. Cách lặp lại phổ biến hơn cả vẫn dùng đại từ xưng hô để lặp lại bổ ngữ danh từ. Thí dụ:

Đáng chú ý trong Tiếng Tày – Nùng, người ta thể lặp lại ngay phần phụ ấy nhờ một số động từ chỉ quan hệ (không dùng độc lập được) xen vào giữa. Thí dụ:

II. ĐẢO NGƯỢC

Phần nòng cốt của câu bao giờ cũng được xếp theo một trật tự nhất định: Chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau, còn bổ ngữ của động từ, tính từ thì lại luôn luôn đứng sau động từ, tính từ đó. Nếu chúng ta đảo lộn trật tự vừa nêu trên không đúng lối, đúng qui tắc thì câu sẽ trở nên sai ngữ pháp hoặc quan hệ giữa các phần trong câu sẽ thay đổi. Tuy vậy, trong những điều kiện nhất định, ta thể đảo trật tự các phần ấy với mục đích làm nổi bật một thành phần nào đó. Trong Tiếng Tày – Nùng, vị ngữ bổ ngữ của động từ, tính từ hai thành phần thường được nhấn mạnh bằng cách ấy.

1. ĐẢO VỊ NGỮ

Để nhấn mạnh vị ngữ, chúng ta thường đưa vị ngữ lên đầu câu với những điều kiện như sau:

(a) Chủ ngữ vị ngữ của câu đều đã được mở rộng, cụ thể sau chủ ngữ, thường thường đại từ chỉ định NẨY (này), hoặc một số trợ từ như NẨY (này này), NẨY (đây này). Phần vị ngữ thường những từ chỉ mức độ như CHĂN (rất), KHỂN (lắm), CÀ RÌNH, CÀ RẠI (thật)…

(b) Trong câu, thường đại từ để hỏi RĂNG (gì), nhưng không phải dùng để hỏi thực chất để phủ định

Thí dụ:

2. ĐẢO BỔ NGỮ

Đảo bổ ngữ cũng để nhấn mạnh đối tượng do hoạt động chi phối. Bổ ngữ đảo bao giờ cũng được đưa lên đầu câu. Chỉ thể đảo bổ ngữ với điều kiện:

(a) Ngoài bổ ngữ định đảo ra, vị ngữ còn những phần phụ khác nữa.

(b) Sau phần đảo, phần nòng cốt của câu (chủ ngữ, vị ngữ) vẫn được giữ nguyên vẹn.

Sau đây một vài thí dụ về bổ ngữ đảo:

Chú ý: Phân biệt bổ ngữ đảo chủ ngữ trong câu bị động.

So sánh:

(1) Tu chài hăp )

Cửa anh đóng rồi

(2) Tu hăp

(cửa đóng rồi)

Câu (1) câu đảo bổ ngữ sau bổ ngữ TU (cửa) phần nòng cố của câu còn giữ nguyên vẹn, do đó hành động HĂP (đóng) biểu thị ở vị ngữ do chủ ngữ CHÀI (anh) tiến hành.

Câu (2) thì hoàn toàn không phải như vậy. Do đó TU (cửa) ở đây chủ ngữ nói về sự vật, còn HĂP (đóng) vị ngữ chỉ trạng thái bị động.