Ngữ pháp tiếng Tày Nùng – I.1 Tiếng Tày – Nùng

CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU

I.I TIẾNG TÀY – NÙNG

1. TIẾNG TÀY NÙNG

Người Tày người Nùng sống xen kẽ với nhau trên một vùng rộng lớn. Vùng đó bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi Bắc Bộ nước ta. Đồng bào Tày – Nùng sống tập trung ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Tuyên Quang, Giang. Ngoài ra, đồng bào còn sống rải rác ở một số vùng thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Bắc, Yên Bái, Lao Cai, Lai Châu, Hòa Bình …. Dân số Tày – Nùng tới 80 vạn (số liệu năm 1960), chiếm 3% dân số cả nước.

Tiếng Tày tiếng Nùng căn bản thống nhất. Đồng bào Tày – Nùng ở nhiều vùng trực tiếp nói chuyện với nhau, hiểu nhau không khó khăn gì. Do đó, thể nói người Tày người Nùng chung một thứ tiếng.

SO SÁNH:

Nghĩa của một số từ dụng tại các địa phương TÀY NÙNG
Hòa An Tràng Định Bạch Thông Phục Hòa Quảng Cao Lộc
Ruộng
(chiếc) đũa Thú Thú Thú Thú Thu Thú
(cái) cày Thây Thây Thây Thay Thay Thay

Nhờ sự thống nhất cơ bản đó, tiếng Tày – Nùng đã được dụng rộng rãi trong các vùng dân tộc khu tự trị Việt Bắc trên thực tế đã trở thành phương tiện giao tiếp chính của toàn khu.

2. TÌNH HÌNH TIẾNG TÀY – NÙNG Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG

Tiếng Tày – Nùng đã một lịch sử lâu đời. Đồng bào yêu mến, giữ gìn không ngừng phát triển thứ tiếng ấy, làm cho trở thành một thứ tiếng giàu đẹp, khả năng biểu đạt tình cảm tinh vi miêu tả dồi dào.

Thí dụ, dùng từ SLIỂM miêu tả vật “nhọn nhưng tùy theo hình dáng, kích thước của vật đó thể dùng thêm những yếu tố đệm khác nhau. Như:

khi thêm yếu tố CẢ vào giữa các từ trên để chỉ sự nhọn với mức độ cao hơn. Như

Khi chỉ khái niệm “CHẢY” của chất lỏng thì dùng từ LUÂY. Nhưng tùy theo lưu lượng lớn nhỏ khác nhau, thể thêm vào những yếu tố đệm. Như:

Những cách miêu tả hoặc phỏng theo âm thanh như trên trong tiếng Tày – Nùng rất phong phú nhiều màu, nhiều vẻ. Bởi thế, người Tày – Nùng đã dùng sáng tạo nên biết bao áng thơ ca hay còn được truyền lại đến ngày nay.

Song Tiếng Tày – Nùng ở các địa phương cũng còn những chỗ khác biệt. Sự khác biệt đó khi thuộc về ngữ âm, cũng khi thuộc về từ ngữ, nhưng chủ yếu về ngữ âm. Nhiều khi cùng người Tày, nhưng ở những vùng xa nhau thì khó hiểu tiếng của nhau hơn hiểu tiếng Nùng ở vùng mình. Giữa người Nùng ở các địa phương khác nhau cũng tình hình như vậy.

Theo tài liệu hiện (Tài liệu điều tra của Ban xây dựng chữ viết Tày – Nùng 1957 – 1960), Tiếng Tày – Nùng ở Việt Bắc thể chia làm ba vùng.

Vùng thứ nhất, bao gồm phần lớn các huyện ở những tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, một phần nhỏ ở các tỉnh Giang, Thái Nguyên toàn bộ Bắc Kạn. Vùng này phía đông bắt đầu từ huyện Lộc Bình ( Lạng Sơn) tới phía tây huyện Chiêm Hóa ( Tuyên Quang); phía bắc từ huyện Quảng (Cao Bằng) tới phía nam huyện Võ Nhai (Thái Nguyên). Vùng này còn thể chia thành hai khu nhỏ hơn. Khu thứ nhất gồm hầu hết các huyện thuộc Cao Bằng, như: Hòa An, Nguyên Bình, Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh. Khu thứ hai bao gồm phần còn lại, chủ yếu thuộc Lạng Sơn Bắc Thái (Bắc Kạn – Thái Nguyên).

Vùng thứ hai, gồm các huyện còn lạiCao Bằng Giang như: Bảo Lạc, Đồng Văn, Hoàng Su Phì.

Vùng thứ ba, bao gồm hầu hết vùng Tày – Nùng ở tỉnh Thái Nguyên một số huyện thuộc hai tỉnh Lạng Sơn Tuyên Quang như: Sơn Dương, Bằng Mạc, Ôn Châu, Hữu Lũng.

So sánh ba vùng, ta thấy vùng thứ nhất đất rộng, người đông. Về vị trí thì vùng này nằm ở giữa.

Thông thường, người ta phải dựa vào những tiêu chuẩn khách quan nhất định, như: Tiếng địa phương nào phong phú điển hình hơn cả, trình độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương phát triển nhất để ấn định vùng tiếng chuẩn cho cả dân tộc. Song do nguyên nhân lịch sử, chúng ta chưa chọn được vùng Tày – Nùng nào đầy đủ các tiêu chuẩn kể trên.

Trong khi chờ đợi, chúng ta chỉ chọn hệ thống những âm từ tạm coi phổ biến hơn để làm tiêu chuẩn. Phổ biến ở đây nghĩa những âm, những từ được người Tày – Nùng ở nhiều nơi dùng nhất.

Thí dụ: Để chỉ khái niệm “ĐƯỜNG ĐI”, phần lớn các nơi gọi TÀNG; nhưng một số nơi ở Cao Bằng lại gọi T’ÀNG; như vậy TÀNG được coi phổ biến. Để chỉ khái niệm “ĐOM ĐÓM”, người Tày – Nùng ở hầu hết các nơi đều gọi HINH HỎI (hay HENG HỎI) hoặc MÈNG HỎI, DÍNH HỎI, DÍNH HỘI. Một số ít nơi như Tràng Định, Bắc Sơn, Võ Nhai lại gọi ĐĂP ĐỈN. Trường hợp như vậy, HINH HỎI sẽ được coi phổ biến.

3. QUAN HỆ GIỮ TIẾNG TÀY – NÙNG MỘT SỐ NGÔN NGỮ KHÁC

Tiếng của các dân tộc thường những mối quan hệ với nhau rất phức tạp, rõ nét nhất các quan hệ về mặt từ vựng. được thể hiện ra bằng hiện tượng những từ nghĩa như nhau thường vỏ ngữ âm gần nhau hoặc giống nhau. Nguyên nhân của việc gần nhau hoặc giống nhau đó một số ngôn ngữ này đã mượn từ của ngôn ngữ khác hoặc trong những thời kỳ xa xưa, một số bộ lạc, bộ tộc nào đó đã từng sống chung với nhau dùng chung một thứ tiếng.

Tiếng Tày – Nùng quan hệ với những ngôn ngữ Thái, Phén, Giấy, Cao Lan ở nước ta; Thái, Choang, Bố Y, Lê…. ở Trung Quốc; Thái ở Thái Lan Lào (ở Lào Thái Lan)…. do nguyên nhân thứ hai. thế các nhà ngôn ngữ học thế giới thường xếp Tiếng Tày – Nùng ngành Tày – Thái, dòng Hán – Thái, họ HánTạng.

So sánh:

(Tiếng các dân tộc khác nhau kể ở đây, nói chung đều chữ viết riêng, ở đây chúng tôi phiên âm theo chữ Việt để tiện so sánh)

Tày

Nùng

Phén Giáy Thái

(Tây

Bắc)

Choang Thái Lan Lào Nghĩa từ
Pỉ

noọng

noọng Pi nuống Pi noọng Pei nuộng Phì noóng noọng Anh em
Tha vằn Tha vằn Tang văn Ta vèn Ta ngổn Ta văn Ta vên Mặt trời
Bươn Bươn Đươn Bươn Đưên Đươn Đươn Tháng
Vài Vài Vải Khoai Vài Khoai Khoai Trâu
Thây Thấy Xây Thay Xơi Thẩy Thay Cái cày
Slam Slam Slam Sam Sam Xảm Xám Số 3
Hả Hả , Hạ Hả Hạ Số 5
Mi , mi Mi Mi