Ngữ pháp tiếng Tày Nùng – VI.III Cụm tính từ

CHƯƠNG VI: MỞ RỘNG CÁC PHẦN CỦA CÂU

PHẦN VI.III CỤM TÍNH TỪ

Cụm từ lấy tính từ làm tủng tâm gọi cụm tính từ. Phần phụ của tính từ trung tâm thể danh từ, động từ, tính từ, số từ thứ tự… Song, sự kết hợp của tính từ với các loại từ nói trên rất hạn chế. Xét theo vị trí, ta cũng thể chia những phần phụ trong cụm tính từ ra làm hai loại: Loại đứng trước loại đứng sau tính từ trung tâm.

1. PHẦN PHỤ ĐỨNG TRƯỚC TÍNH TỪ TRUNG TÂM

Trước tính từ trung tâm, thể những phần phụ thuộc các loại sau đây:

A. PHẦN PHỤ NHỮNG PHỤ TỪ THỜI GIAN, PHỦ ĐỊNH

Thường thường những phụ từ đững trước động từ trung tâm cũng thể đứng trước được cả tính từ trung tâm để xác định cho về ý nghĩa thời gian, về ý nghĩa phủ định. Thí dụ:

B. PHẦN PHỤ PHỤ TỪ MỨC ĐỘ

Một đặc điểm nổi bật làm cho cụm tính từ khác hẳn các loại cụm từ khác ở trước thường thêm phụ từ CHĂN (rất), NÀO (hơi), HẲM (hơn) để chỉ mức độ tuyệt đối hay mức độ so sánh. Thí dụ:

Chú ý: Ngoài những phụ từ trên, để chỉ mức độ tuyệt đối hay so sánh, Tiếng Tày – Nùng rất hay dùng phụ từ KHỂN (quá, lắm), LAI (lắm), QUÁ (hơn). Song, những phụ từ này khi kết hợp với tính từ lại luôn luôn đứng sau .

đây, cần chú ý hai từ QUÁ, HẲM hai từ đều nghĩa hơn”. Hai từ này giống nhau ở chỗ tác dụng nêu lên sự so sánh, nhưng lại khác nhau cơ bảnkhả năng kết hợp.

Khi kết hợp với tính từ, QUÁ luôn luôn đứng sau tính từ đó, sau QUÁ thể bổ ngữ.

HẲM thì ngược lại, khi kết hợp với tính từ, HẲM lại luôn luôn đứng trước tính từ sau đó không thể bổ ngữ. Trường hợp cần bổ ngữ thì phải thêm QUÁ vào nữa. Thí dụ:

2. PHẦN PHỤ ĐỨNG SAU TÍNH TỪ TRUNG TÂM

Cũng như cụm danh từ cụm động từ, phần lớn những từ phụ nghĩa trong cụm tính từ đều đứng sau từ trung tâm.

A. PHẦN PHỤ DANH TỪ, ĐẠI TỪ XƯNG

Hai loại từ này đứng sau tính từ trung tâm tác dụng xác định nhiều khía cạnh ý nghĩa khác nhau, như xác định về đối tượng, thời gian, nơi chốn, sự vật được đem ra so sánh… Số lượng tính từ làm trung tâm theo kiểu này không nhiều lắm, chỉ thấy một số tính từ chỉ mức độ tương đối mới khả năng ấy. Trong đó, phần lớn lại những cặp tính từ trái nghĩa, như: LAI (nhiều) – NỌI (ít), SLỨA (thừa) – SLIỂU (thiếu), QUÂY (xa) – XẨƯ (gần), TỒNG (giống) – TÁNG (khác), ĐĂM (tối) – RỦNG (sáng)… Thí dụ:

B. PHẦN PHỤ ĐỘNG TỪ

Động từ đứng sau tính từ trung tâm nêu lên hoạt động đặc trưng, tính chất đã được xác định rồi (1). Thí dụ:

Riêng những động từ phương hướng đặt sau tính từ trung tâm để chỉ ra hướng biến đổi của đặc trưng tính chất do tính từ biểu thị. Thí dụ:

Chú thích (1): Trong loại cụm từ này, một số cụm từ thể thay đổi vị trí ý nghĩa của không đổi. Thí dụ: Xăc slon (chăm học) (cụm tính từ), slon xăc (học chăm) (cụm động từ). Nhưng đối với một số cụm từ khác, nếu thay đổi vị trí thì ý nghĩa hoàn toàn sẽ khác đi. Thí dụ: Cụm tính từ CHÌ CHẢI PHUỐI (khoan hãy nói); Cụm động từ PHUỐI CHÌ CHẢI (nói từ từ)

C. PHẦN PHỤ SỐ TỪ THỨ TỰ, TÍNH TỪ

Số từ thứ tự đứng sau tính từ tác dụng nêu lên mức độ so sánh của đặc trưng tính chất. Còn tính từ đứng sau tính từ trung tâm thì rất hiếm. Ta chỉ hay gặp cặp tính từ LAI (nhiều) – NỌI (ít) đứng sau một số tính từ khác để phụ nghĩa cho những tính từ ấy thôi.

Trong trường hợp này nghĩa của hai từ trên đôi khi thay đổi ít nhiều. Chúng chỉ ra mức độ của tính chất, đặc trưng. LAI nghĩa “nhiều, lắm”. NỌI nghĩa “ít, khônglắm”.

Phần phụ số từ thứ tự:

Phần phụ tính từ:

Như trên đã phân tích, trong cụm động từ cụm tính từ, phần phụ xác minh cho từ trung tâm về nhiều khía cạnh khác nhau. Chúng chỉ rõ đối tượng, phương hướng, thời gian, nơi chốn hoặc đặc trưng của hoạt động. Tuy vậy những phần phụ này một đặc điểm chung bổ nghĩa cho từ trung tâm. Chúng những BỔ NGỮ. Cũng như định ngữ, bổ ngữ thành phần của cụm từ. Chúng ta chỉ xét chúng trong phạm vi của cụm từ.