Ngữ pháp tiếng Tày Nùng – VI.II Cụm động từ

CHƯƠNG VI: MỞ RỘNG CÁC PHẦN CỦA CÂU

PHẦN VI.I CỤM ĐỘNG TỪ

Cụm từ lấy động từ làm trung tâm gọi cụm động từ. Thí dụ:

Cụm động từ trong Tiếng Tày – Nùng rất nhiều vẻ. Động từ thể được các loại từ sau đây phụ nghĩa cho : Danh từ, tính từ, số từ, phụ từ… Hầu hết những phần phụ trong cụm động từu đều đứng sau động từ trung tâm; chỉ một số ít phụ từ trước thôi.

1. PHẦN PHỤ ĐỨNG TRƯỚC ĐỘNG TỪ TRUNG TÂM

Phần phụ đứng trước động từ trung tâm một số loại nhỏ, mỗi loại đều xác định khía cạnh ý nghĩa riêng khi kết hợp với động từ.

Để xác định thời gian của hành động, chúng ta dùng những phụ từ: ĐANG SLÍ (đang) chỉ thời gian hiện tại; CỎI (sẽ) chỉ thời gian tương lai; NÁO, NGÁM, CHẮNG (vừa, vừa mới) chỉ quá khứ gần (hoạt động mới xảy ra); ĐÉ, SLÉN (đã lâu) chỉ quá khứ xa (hoạt động xảy ra tương đối lâu hơn). Thí dụ:

Hiện nay, để dịch các câu trong tiếng Việt cho sát ý, trong văn viết thường dùng phụ từ XẸ, ĐẠ hai từ mượn của tiếng Việt. Thí dụ:

Việc dùng XẸ, ĐẠ chưa được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Ngoài những cách biểu đạt thời gian nói trên, trong Tiếng Tày – Nùng còn thường dùng từ (rồi) ở cuối câu để biểu thị sự việc đã tiến hành ( thể hoàn thành hoặc chưa hoàn thành) hay dùng những đơn vị chỉ thời gian, như DĂP THEM ( nữa), VẰN, PJỤC (ngày mai)…, ở ngoài cụm động từ để biểu thị hoạt động chưa xảy ra.

Để phủ định hoạt động do từ trung tâm biểu thị, ta dùng những từ phủ định như BẤU (không), XẰNG (chưa), (đừng)…

Để chỉ sự bị động, ta thường dùng một số động từ ít dùng độc lập như MẺN (bị, phải), THÚC (bị), LÈO (phải), PỀN (nên)…

2. PHẦN PHỤ ĐỨNG SAU ĐỘNG TỪ TRUNG TÂM

Phần phụ đứng sau động từ trung tâm khá phức tạp. thể từ hay cụm từ. Về loại từ, thể danh từ, động từ, tính từ nhiều khi cả từ chỉ số lượng thứ tự… Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt xét các dạng kết hợp ấy.

A. PHẦN PHỤ DANH TỪ

Động từ kết hợp với danh từ phần lớn không quan hệ từ, những cũng một số trường hợp cần quan hệ từ làm môi giới. Về ý nghĩa, danh từ phụ nghĩa cho động từ trung tâm, biểu thị nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể chỉ ra các mặt sau đây:

(1) Chỉ ra đối tượng của hoạt động. Thí dụ:

một số động từ thuộc loại này thường đòi hỏi hai từ chỉ đối tượng, trong đó một đối tượng chỉ người tiếp nhận, một đối tượng chỉ sự vật bị chi phối. Đó những động từ ý nghĩa ban phát hoặc tiếp nhận. Vị trí của hai từ chỉ đối tượng thường được sắp xếp theo trật tự sau:

Động từ trung tâm + Từ chỉ đối tượng tiếp nhận + từ chỉ đối tượng chi phối.

Ngoài danh từ ra, đại từ xưng hô cũng thường đứng sau động từ trung tâm để chỉ ra đối tượng bị chi phối.

lẽ để đảm bảo sự cân đối nhịp nhàng của câu nói, nên đối tượng chi phối thường thường do một cụm từ đảm nhiệm. Ít ai nói vắn tắt như: HẨƯ TE MAC (cho quả), DƯM TE CHÈN (mượn tiền), thường diễn đạt đầy đủ: HẨƯ TE HẢO LAI MAC (cho khá nhiều quả), HẨƯ TE SLOONG CÂN MAC (cho hai cân quả), DƯM TE KỈ MƯN CHÈN (vay mấy đồng bạc)…

(2) Chỉ ra thời gian nơi chốn của hoạt động. Loại cụm từ này hai dạng cấu trúc khác nhau. Dạng thứ nhất gồm những cụm từ giữa từ trung tâm từ phụ nghĩa của không quan hệ từ làm môi giới. Từ phụ nghĩa thường những từ chỉ nơi chốn hoặc thời gian.

Phần phụ chỉ thời gian:

Phần phụ chỉ nơi chốn:

Dạng thứ hai bao gồm những cụm từ giữa từ trung tâm từ phụ nghĩa cho , bao giờ cũng quan hệ làm từ môi giới. Những quan hẹ từ đó thường dùng : (ở), TẲM (từ, tận), THÂNG (đến), TỨTHÂNG (từ… đến)..

Phần phụ chỉ thời gian quan hệ từ:

Phần phụ chỉ nơi chốn quan hệ từ:

(3) Nói rõ nhân vật cùng hành động hoặc chỉ ra sự so sánh tính chất hình tượng. Trong những cụm từ ngày, giữa từ trung tâm từ phụ nghĩa bao giờ cũng quan hệ làm từ môi giới. Những quan hệ từ XÁU, ĐUỔI (với), XÀY (cùng) nói lên hành động cùng một lúc. Một số từ chỉ quan hệ như PỀN, BẶNG (như), TÀY (bằng) nói lên sự so sánh.

(4) Nói rõ điều kiện hoạt động. Loại cụm từ này cũng hai dạng kết hợp khác nhau.

Một dạng, giữa từ trung tâm từ phụ nghĩa không quan hệ từ trước từ phụ nghĩa chỉ điều kiện cũng không thể các từ phụ nghĩa thuộc loại khác nữa. lẽ đó, loại cụm từ này, ở trong Tiếng Tày – Nùng, không được phổ biến (1).

(Chú thích (1): Thường thường để chỉ điều kiện hoạt động thuộc dạng thứ nhất trong Tiếng Tày – Nùng hay dùng cặp từ hô ứng AU (lấy… về) làm môi giới. Cấu trúc cụm từ sẽ như sau: Từ chỉ công cụ luôn luôn xe giữa cặp hô ứng đó, còn từ chỉ hoạt động bao giờ cũng đứng sau cặp hô ứng. 

Thí dụ

Dạng thứ hai, bao giờ cũng quan hệ từ làm môi giới. Một số quan hệ từ thường dùng MỪA (về), RÈO, NÈM (theo)…

Phần phụ chỉ điều kiện không quan hệ từ:

Phần phụ chỉ điều kiện, quan hệ từ:

(5) Nói rõ kết quả của sự biến hóa. Động từ trung tâm thường những động từ chỉ quan hệ biến hóa: PJẾN (biến), PJẾN PỀN (biến thành), PỀN (thành)…

B. PHẦN PHỤ ĐỘNG TỪ

Động từ kết hợp với động từ cũng hiện tượng hay gặp. Các động từ thêm vào sau từ trung tâm nhiều loại, trong đó một số loại ý nghĩa chỉ động tác, hành vi đã bị giảm đi nhiều. Thường thường, động từ đứng sau phụ nghĩa cho từ trung tâm về những mặt sau đây:

(1) Chỉ ra phương hướng của hoạt động. Những từ phương hướng hay dùng OOC (ra), KHẢU (vào), KHỬN (lên), LỒNG (xuống), PÂY (đi), TẺO (lại), (về)… Sau đây các dạng kết hợp của động từ phương hướng với động từ trung tâm.

Dạng thứ nhất: Một động từ chỉ phương hướng đứng sau một động từ trung tâm. Trong trường hợp này, nếu động từ trung tâm động từ hành vi thì sau thể bổ ngữ đối tượng, rồi mới đến phần phụ chỉ phương hướng.

Dạng thứ hai: Hai động từ phương hướng kết hợp với nhau. Khi hai động từ phương hướng kết hợp với nhau để tạo thành một cụm từ thì động từ thứ nhất bao giờ cũng chỉ sự chuyển động so với địa hình (cao thấp, hẹp rộng…) động từ thứ hai chỉ hướng chuyển động so với người nói. Trong Tiếng Tày – Nùng ba động từ chỉ hướng chuyển động so với người nói : PÂY (đi), (về, đến), MỪA (về).

Cũng như loại trên, nhiều khi động từ phương hướng làm từ trung tâm thể bổ ngữ chỉ nơi chốn xen vào giữa hai động từ.

Trong các cụm từ vừa nêu trên, động từ thứ nhất trung tâm còn ý nghĩa từ vựng, ở động từ thứ hai thì ý nghĩa từ vựng không còn rõ rệt nữa.

Dạng thứ ba: Một động từ trung tâm kết hợp với hai động từ phương hướng. nhiều động từ trung tâm thường đòi hỏi hai động từ chỉ phương hướng, nhất khi từ trung tâm một động từ chuyển động. Trong hai từ chỉ phương hướng đó, một từ chỉ hướng so với địa hình, một từ chỉ hướng so với người nói, thể hai cách kết hợp như sau:

Động từ trung tâm + từ chỉ hướng so với địa hình + từ chỉ hướng so với người nói. Thí dụ:

Động từ trung tâm + từ chỉ hướng chuyển động so với địa hình + bổ ngữ nơi chốn + từ chỉ hướng so với người nói. dụ:

(2) Chỉ rõ kết quả của hoạt động. Thí dụ:

(3) Chỉ rõ nguyên nhân mục đích của hoạt động. Loại phần phụ này phần lớn trực tiếp đặt sau từ trung tâm. Nhưng cũng trường hợp cần quan hệ từ làm môi giới, cũng cả trường hợp hay không quan hệ từ cũng được.

Phần phụ không quan hệ từ:

Phần phụ quan hệ từ:

Phần phụ hay không quan hệ từ cũng được:

(4) Chỉ ra quan hệ của hoạt động, tức hoạt động tiến hành cho bản thân mình hoặc cho một đối tượng nào khác. Động từ trung tâm động từ phụ nghĩa của loại cụm từ này thường lại từ phụ nghĩa riêng của mình nữa. Động từ phụ nghĩa thường do động từ phát nhận HẨƯ (cho), AU (lấy)… biểu thị.

Bổ ngữ chỉ đối tượng chi phối nếu chỉ một từ thì thường thường trực tiếp đứng sau từ trung tâm; nhưng nếu một cụm từ (chính phụ, liên hợp) thì vị trí của tự do hơn. Ta ít khi nói: DOẠI HẨƯ TE MAC (đưa cho quả) thường hay nói DOẠI MAC HẨƯ TE (đưa quả cho ).

Nhưng lại thể nói: DOẠI HẨƯ TE KỈ ĂN MAC (đưa cho mấy quả) hoặc DOẠI KỈ ĂN MAC HẨƯ TE (đưa mấy quả cho )

(5) Nói rõ hoạt động người khác phải thực hiện. Động từ trung tâm thường những động từ nghĩa cầu khiến hoặc cho phép. Giữa hai động từ thể đối tượng bị chi phối. Thí dụ:

C. PHẦN PHỤ TÍNH TỪ

Tính từ đứng sau động từ trung tâm tác dụng chỉ ra đặc trưng tính chất hoặc kết quả của hoạt động. Đấy cũng một loại cụm động từ rất phổ biến. Thí dụ

D. PHẦN PHỤ SỐ TỪ

Trong Tiếng Tày – Nùng, chỉ một số ít động từ kết hợp được với số từ, lẽ đó nên số lượng cụm từ này không nhiều. Một số cụm từ thường gặp những cụm từ được diễn đạt theo cách nói tắt. Thí dụ:

E. SAU ĐỘNG TỪ TRUNG TÂM THỂ THÊM CẢ MỘT CỤM TỪ CHỦ VỊ

Để xác minh cho động từ trung tâm về nhiều mặt khác nhau như: Nguyên nhân, mục đích, hậu quả… Trong một số cụm từ thuộc loại này, giữa từ trung tâm phần phụ thường thường các từ TẰNG, TẰNG CẠ (đến nỗi), HẨƯ (cho)… xen vào giữa. Thí dụ: