CHƯƠNG VI: MỞ RỘNG CÁC PHẦN CỦA CÂU
PHẦN VI.I CỤM DANH TỪ
Cụm từ lấy danh từ làm trung tâm là cụm danh từ.
Thí dụ:
- Rườn kich (nhà gạch)
- Slam cần (ba người)
Trong Tiếng Tày – Nùng, danh từ trung tâm có thể ghép được với tất cả các loại từ, như: Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ…
Những loại từ phụ này được xếp theo một trật tự nhất định. Ta chỉ có thể nói RƯỜN KICH (nhà gạch), SLAM CẦN (ba người), chứ không ai lại nói ngược KÍCH RƯỜN (gạch nhà), CẦN SLAM (người ba).
Xét theo vị trí, chúng ta có thể chia những phần phụ của cụm danh từ thành hai loại lớn: Loại đứng trước và loại đứng sau từ trung tâm.
1. PHẦN PHỤ ĐỨNG TRƯỚC DANH TỪ TRUNG TÂM
Những phần phụ đứng trước từ trung tâm không nhiều, không phức tạp, và được xếp theo một trật tự ổn định nhất, chặt chẽ nhất so với các phần phụ khác. Chúng là những từ chỉ số lượng và những từ chỉ đơn vị chủng loại.
A. PHẦN PHỤ LÀ NHỮNG TỪ CHỈ SỐ LƯỢNG
Để xác minh cho từ trung tâm về số lượng toàn thể, người ta thường dùng những từ: LÁO LÚNG (tất cả), TẰNG (cả, tất cả), THUỔN (tất cả, hết thảy). Hiện nay , một số địa phương còn dùng từ HẰM BÀ LẰNG (tất cả) là từ mượn của từ tiếng Quảng Đông nữa. Riêng từ QUÁ (cả, suốt) thì chỉ đứng trước những danh từ chỉ thời gian trong năm như PI (năm), BƯƠN (tháng)… Thí dụ:
- Láo lúng slip hả cần hêt công (tất cả mười lăm người làm việc).
- Thuổn đêch ké bấu dau dên dac (tất cả già trẻ không lo đói rét)
- Mà hảo lai dá, hằm bà lằng chủa rườn (đến khá nhiều rồi, tất cả đều chủ nhà)
- Tằng bản xày hêt (cả làng cùng làm.
Khi đã được phụ thêm về số lượng toàn thể, phần lớn danh từ trung tâm thường đòi hỏi được xác minh về số lượng không xác định hay số lượng chính xác.
Để xác minh cho từ trung tâm về số lượng không xác định hoặc liệt kê các đối tượng được nói tới, ta thường dùng những từ: BẠI (những), BOONG (các), MỌI (mỗi)… Các từ này thường thường kết hợp trực tiếp với từ trung tâm, nghĩa là giữa nó và từ trung tâm ít khi xen phụ từ chỉ đơn vị chủng loại vào giữa. Thí dụ:
- Láo lúng bại mò (tất cả những bò = tất cả những con bò)
- Thuổn mọi cần (tất cả mọi người)
- Thuổn boong noọng (tất cả các em)
- Tằng bại bản xày hăp phai (tất cả các làng cùng đắp đập)
Để xác minh cho từ trung tâm về số lượng chính xác, ta dùng số từ số lượng: SLOONG, SLAM, SLÍ, PAC, XIÊN…
Khi danh từ kết hợp với số từ, có hai trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ nhất: Những danh từ mà bản thân nó có thể dùng làm từ chỉ đơn vị đo lường được thì thường kết hợp trực tiếp với số từ. Đó là những danh từ: CẦN, PI, BƯƠN, BẢN, CHÀNG (lạng)… Thí dụ:
- Hả cần (năm người)
- Sloong pi (hai năm)
- Slam bản (ba xóm)
Thỉnh thoảng cũng có người nói HẢ TUA CẦN (năm con người), SLAM ĂN PI (ba cái năm), đấy là muốn nhấn mạnh mức độ nhiều, mức độ lâu dài hoặc nhấn mạnh mang tính mỉa mai. Trường hợp thứ hai: Phần lớn danh từ khi kết hợp với số từ số lượng cần có phụ từ đơn vị xen vào giữa. Ta không thể nói HẢ PJA (năm cá) mà phải nói HẢ TUA PJA (năm con cá). Các thí dụ dưới cũng ở dạng đầy đủ như vậy.
- Láo lúng sloong tua vài (tất cả hai con trâu)
- Hằm pà lằng slí ăn choòng (tất cả bốn cái bàn)
Tuy nhiên, trong Tiếng Tày – Nùng, cũng có những trường hợp ngoại lệ. Khi kể chuyện với nhau về của cải, có lẽ để liệt kê cho nhanh, cho nhiều, người ta có thể bỏ phụ từ đơn vị trơng những cụm từ đáng lẽ phải có nó. Nhưng dù sao đó cũng là hiện tượng không bình thường. Thí dụ:
- Hả slưt, hả fà (năm chăn, năm màn)
- Chượng slam mu (nuôi ba lợn)
Để biểu thị số lượng ước phỏng, trong Tiếng Tày – Nùng thường dùng những cụm từ được cấu tạo bằng các cách sau:
(1) Ghép hai số từ kề nhau lại:
- Sloong slam cần (hai ba người)
- Slip chêt slip pet pi (mười bảy mười tám tuổi)
- Xiên hả xiên hôc cân (nghìn rưỡi nghìn sáu cân)
(2) Thêm từ LAI (hơn) vào sau từ trung tâm nếu số từ ở hàng đơn; vào trước từ trung tâm nếu nó ở hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn… và đôi khi xen vào giữa từ trung tâm và từ chỉ đơn vị. Thí dụ:
- Slí mưn lai (bốn đồng hơn = hơn bốn đồng)
- Slip lai cần (mười hơn người = hơn mười người)
- Sloong pac lai vằn (hai trăm hơn ngày = hơn hai trăm ngày)
- Hả cái lai hin (năm cây hơn số = hơn năm cây số)
Để biểu thị phần trăm và phân số thì dùng số từ số lượng kết hợp với từ CHÌNH, FẤN (phần).
CHÌNH để biểu thị phần trăm:
- Slip chình (mười phần = mười phần mười = trăm phần trăm)
FẤN biểu thị phân số và phần trăm
- Slam fấn slí (ba phần tư)
- Hả fấn pac (năm phần trăm)
Để biểu thị sự hơn hẳn nhiều lần thì cũng dùng số từ số lượng kết hợp với từ TẬP (gấp) (Số từ số lượng có thể đứng trước từ TẬP (gấp) nhưng ở hai vị trí khác nhau thì ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Thí dụ: Tập sloong (gấp đôi = chập làm đôi) , Sloong tập (hai gấp = gấp hai))
- Sloong tập (hai gấp = gấp hai)
- Slip tập (mười gấp = gấp mười)
B. PHẦN PHỤ LÀ NHỮNG TỪ CHỈ ĐƠN VỊ
Như trên đã nói, khi được xác minh về số lượng, phần lớn danh từ trung tâm đòi hỏi phải có phụ từ đơn vị xen vào giữa. Phụ từ đơn vị trong tiếng Tày – Nùng tương đối phong phú. Chúng gồm những loại sau:
B.1 Những phụ từ chỉ đơn vị – chủng loại, như: Tua (con), Ỉ (đứa), Slẳm (cái, mống), Ăn (cái, quả), Co (cây), Bâư (chiếc), Phén (tấm)…
- Liệng slam tua mu (nuôi ba con lợn)
- Chay sloong co mac lì (trồng hai cây quả lê = trồng hai cây lê (1)
- Kin kỉ ăn mac pục (ăn mấy quả quả bưởi = ăn mấy quả bưởi) (2).
Chú thích: (1), (2) Trong Tiếng Tày – Nùng, những yếu tố như LÌ, PỤC có thể kết hợp với nhữn từ chỉ các loại khác nhau. Ta có thể nói: Mạy lì (cây lê), Mac lì (quả lê), bâư lì (lá lê), Cáng lì (cành lê)… do đó dễ lầm tưởng rằng những tổ hợp trên là cụm từ, và những yếu tố như LÌ là đơn vị độc lập. Nhưng thực ra những yếu tố như LÌ luôn luôn gắn liền với một yếu tố khác mới tồn tại được.
Ta chỉ nói: Kin mac lì (ăn quả lê), dự mac lì (mua quả lê), pin mạy lì (leo cây lê)… chứ không nói được: KIN LÌ (ăn lê), DỰ LÌ (mua lê). Vậy MAC LÌ (quả lê), MẠY LÌ là những từ ghép. Trong các cụm từ vừa nêu trên, MAC LÌ (quả lê), MAC PỤC (quả bưởi) là những từ trung tâm.
Ỉ và SLẲM ở đây có thể coi là từ định loại thứ nhất chỉ ra sự vật nhỏ bé không đáng coi trọng, còn HÒ và MẠC là từ định loại thứ hai chỉ ra loại động vật hay công cụ.
B.2 Những danh từ chỉ đơn vị đo lường như: CHÀNG (lạng), XICH (thước, mét), XÓN (tấc), BOOC (ống), CAO (sào)…
- Slí hả chàng nựa (bốn năm lạng thịt)
- Slip booc khẩu (mười ống gạo)
- Sloong xich phải (hai mét vải)
B.3 Một số danh từ, trong một số trường hợp nhất định được dùng như những từ chỉ đơn vị đo lường, như: CẦN (người), BÔM (mâm), PAT (bát), XÓI (cái thạ)….
- Kỉ cần lục slao (mấy người con gái)
- Slam bôm khẩu (ba mâm cơm)
- Bại pat nặm bâư xả (những bát nước vối)…
Chú ý: Trong loại cụm từ này, chúng ta cần chú ý đến một vài hiện tượng rất đặc biệt.
(a) Số từ ĐEO, NÂNG (một) trong Tiếng Tày – Nùng bao giờ cũng đứng sau danh từ mà nó phụ nghĩa. Người Tày – Nùng chỉ nói: Cần nâng (người một = một người), Slim đeo, cò toọc (lòng một dạ một = một lòng một dạ). Khi cụm danh từ đã có từ NÂNG thì nó thường ở dạng đơn giản nhất. Cụ thể là phần trước của danh từ trung tâm không thể có những từ phụ chỉ số lượng toàn thể nữa.
Ta không thể nói LÁO LÚNG ĂN RƯỜN ĐEO (tất cả cái nhà một = tất cả một cái nhà)
(b) Những danh từ chỉ động vật, khi đã có tính từ chỉ giống đứng trước rồi, thì kết hợp trực tiếp với số từ số lượng (không thể có phụ từ chỉ đơn vị xen vào giữa nữa), vì từ chỉ giống ở vị trí đó có tác dụng xác định về mặt đơn vị (Ngoài dạng kết hợp này, để xác minh về giống trong Tiếng Tày – Nùng còn có thể tổ hợp theo cách sau: Số từ + từ đơn vị + từ trung tâm + từ chỉ giống. Thí dụ: Slam tua vài tậc (ba con trâu đực))
Thí dụ:
- Slam pỏ vài (ba đực trâu = ba con trâu đực)
- Chêt mẻ mò (bảy cái bò = bảy con bò cái)
- Kỉ phủ cáy (mấy trống gà = mấy con gà trống)
(c) Từ BẠI (những, các) và các số từ số lượng không bao giờ cùng tồn tại để cùng phụ nghĩa cho một danh từ. Để xác minh lượng nhiều, ta có thể nói: PET TUA MẠ (tám con ngựa) hoặc BẠI MẠ (những ngựa = những con ngựa). Hai tổ hợp trên không thể ghép lại thành một tổ hợp lớn như: PET BẠI TUA MẠ (tám những con ngựa).
(d) Trong những loại từ phụ đứng trước danh từ trung tâm, có hai từ đặc biệt là từ CHĂN (thật), BẤU (không).
CHĂN bao giờ cũng đứng trước danh từ mà nó phụ nghĩa. Tục ngữ có câu: CHĂN KIM BẤU LAO FẦY, DÚ NGAY NGẦU BẤU CHẠI (vàng thật không sợ lửa, ở ngay bóng không lệch)
Tương từ như cấu trúc CHĂN KIM, trong Tiếng Tày – Nùng có hàng loạt cấu trúc kiểu này: CHĂN LÊCH (thật sắt = sắt thật), CHĂN CÚA (thật của = của thật)… Sở dĩ có hiện tượng đặc biệt như vậy là vì từ CHĂN vốn là từ HÁN; khi mượn từ đó, Tiếng Tày – Nùng mượn cả kiểu cấu trúc của tiếng Hán.
Từ BẤU đứng trước danh từ với nghĩa là BẤU MÌ (không có). Đặc biệt là nó có thể xen vào giữa một số danh từ tổng hợp để phủ định.
- Bấu ngần, bấu chèn (không bạc không tiền)
- Slửa bấu khóa (áo không quần = không quần áo)
- Rườn bấu lảng (nhà không gầm nhà = không nhà cửa)
Nói tóm lại, phần phụ đứng trước danh từ trung tâm, ở dạng tương đối đầy đủ, được sắp xếp theo trật tự như sau:
Trật tự | Số lượng toàn thể | Số lượng chính xác hoặc không xác định | Từ chỉ đơn vị | Từ trung tâm |
Thí dụ | Láo lúng (tất cả) | Hả (số năm) | Tua (con) | Vài (trâu) |
2. PHẦN PHỤ ĐỨNG SAU DANH TỪ TRUNG TÂM
Phần phụ nghĩa trong cụm danh từ phần lớn đề đứng sau danh từ chính. Chúng có thể là một từ, một cụm từ; về loại từ chúng có thể là danh từ, động từ, tính từ, đại từ…
A. PHẦN PHỤ LÀ DANH TỪ
Khi danh từ phụ nghĩa cho danh từ, có ba cách kết hợp khác nhau
(1) Giữa từ trung tâm và phần phụ nghĩa, không có quan hệ từ làm môi giới. Trong loại cụm từ này, phần trung tâm bao giờ cũng chỉ sự vật khái quát, còn phần phụ nghĩa thì thường có tác dụng hạn định nó về chủng loại, về đặc trưng, hoặc về thời gian, không gian…
Thí dụ:
- Lền pán (dây gai)
- Nựa mu (thịt lợn)
- Vằn cón (ngày trước)
(2) Giữa từ trung tâm và phần phụ nghĩa, có quan hệ từ hay không cũng được. Đấy là trường hợp phần phụ nêu lên quan hệ sở thuộc. Tuy vậy, cách tổ hợp có quan hệ từ vẫn thường hay gặp hơn. Trong mấy ví dụ dưới đây, ta có thể bỏ hay thêm quan hệ từ CÚA (của) mà không làm ảnh hưởng đến ý nghĩa của cụm từ.
Thí dụ:
- Slim hây (lòng ta) -> Slim cúa hây (lòng của ta)
- Rườn noọng (nhà em) -> Rườn cúa noọng (nhà của em)
- Căm phjôm cúa Mùi Phạm (nắm tóc của Mùi Phạm)
(3) Cuối cùng, giữa từ trung tâm và phần phụ nghĩa chỉ sở thuộc luôn luôn có quan hệ từ CÚA (của), nếu không thì sẽ biến nghĩa. Đó là khi danh từ trung tâm có nhiều phần phụ nghĩa cho nó, hoặc danh từ trung tâm là một từ trừu tượng cấu tạo từ động từ hay tính từ. Thí dụ:
- Tỉnh cằm roọng việc cúa Bác Hồ (nghe lời kêu gọi của Bác Hồ)
- Bâư slửa khao cúa chài ngám dặc (cái áo trắng của anh vừa mới giặt)
B. PHẦN PHỤ LÀ TÍNH TỪ
Tính từu đứng sau danh từ trung tâm là để miêu tả các đặc trưng tính chất khác nhau của sự vật do danh từ biểu thị. Thí dụ:
- Slửa phải kheo (áo vải xanh)
- Ăn rườn cải dú rìm bản (cái nhà lớn ở rìa xóm)
- Cần ké xu năc (người già tai nặng = người già nặng tai)
C. PHẦN PHỤ LÀ ĐỘNG TỪ
Động từ đứng sau danh từ trung tâm có tác dụng xác định tính chất, trạng thái của sự vật nêu ở trung tâm. Một số cụm từ thuộc loại này có thể cải biến thành cụm động từ (cụm từ lấy động từ làm trung tâm) khi ta đảo trật tự các phần trong cụm từ ấy. So sánh:
Cụm danh từ | Cụm động từ |
Khẩu khủa (cơm rang) | Khủa khẩu (rang cơm) |
Slửa slan (áo đan) | Slan slửa (đan áo) |
Nựa ấu (thịt hầm) | Ấu nựa (hầm thịt) |
D. PHẦN PHỤ LÀ SỐ TỪ THỨ TỰ
Số từ thứ tự có tác dụng hạn định danh từ trung tâm về mặt thứ tự. Thí dụ:
Mì sloong lan, lan tải êt slon lơp hả, lan tải nhỉ slon lơp slí (có hai cháu, cháu thứ nhất học lớp năm, cháu thứ hai học lớp bốn)
Điều đáng chú ý là số từ số lượng đặt sau một số danh từ trung tâm cũng có tác dụng chỉ ra thứ tự. Đấy là những cụm từ chỉ thời gian trong năm như: BƯƠN ÊT (tháng một), BƯƠN SLAM (tháng ba)… và một số cụm từ chỉ thứ tự khác nữa do dịch hoặc phỏng dịch từ tiếng Việt ra. Trong sách báo hiện nay, ta thường gặp những cụm từ LƠP ÊT (lớp một), LƠP SLÍ (lớp bốn), CÂP SLOONG (cấp hai)…
E. PHẦN PHỤ LÀ ĐẠI TỪ
Đại từ có nhiều tiểu loại (xưng hô, chỉ định), khi kết hợp với danh từ trung tâm, mỗi loại đều có tác dụng riêng của mình. Để xác định vị trí của sự vật trong không gian, ta thường dùng những đại từ chỉ định NẨY (này), TỈ (kia), ĐAI, ỨN (khác)… Thí dụ:
- Rườn nẩy, rườn tỉ (nhà này, nhà kia)
- Bản nẩy, bản ứn (làng này, làng khác)
Để chỉ quan hệ sở thuộc, ngoài việc dùng danh từ ra, người ta còn dùng đại từ xưng hô nữa. Giữa đại từ xưng hô và danh từ trung tâm có quan hệ từ hay không có cũng được. Ta nói: BẢN KHỎI (làng tôi), hay BẢN CÚA KHỎI (làng của tôi) thì vẫn là một, nhưng trong thực tế, trường hợp không có quan hệ từ phổ biến hơn.
Thí dụ:
- Việt Băc boong hây (Việt Bắc chúng ta)
- Sloong phjăc khỏi (vườn rau của tôi)
Nếu danh từ trung tâm có nhiều từ phụ nghĩa cho nó, nhất là sau nó đã có từ phụ nghĩa là động từ hoặc tính từ thì giữa phần trung tâm và phần phụ cần có từ CÚA (của) là quan hệ từ chỉ sự sở thuộc.
- Cầư tố chứ cằm slắng cúa te (ai cũng nhớ lời dặn của nó)
- Tôi hài mấư của khỏi tặt tềnh cac (đôi giày mới của tôi đặt trên gác)
G. PHẦN PHỤ CỦA DANH TỪ TRUNG TÂM CÓ THỂ LÀ CẢ MỘT CỤM TỪ CHỦ VỊ
Thí dụ:
- Bâư slư noọng lài vằn ngòa đạ phac dá (lá thư em viết hôm qua đã gửi rồi)
- Rườn lảng pỏ mẻ sle hẩư nhằng mắn (nhà cửa cha mẹ để lại còn chắc)
Nói tóm lại, tuy những từ phụ nghĩa cho danh từ trung tâm xác minh về nhiều khía cạnh khác nhau, như số lượng, đặc trưng tính chất, hành động, sở thuộc… Nhưng chúng đều mang một tính chất chung là hạn định phạm vi khái quát của danh từ trung tâm lại. Đó là những định ngữ. Vì định ngữ chỉ là phần phụ cho những từ chính ở trong câu chứ không phải phần phụ của cả câu, cho nên chúng chỉ là thành phần phụ cho một từ, chúng ta cũng chỉ xét chúng ở phạm vi cụm từ.
Sau khi đã xét qua các loại định ngữ, có thể tóm tắt về trật từ của các định ngữ trong Tiếng Tày – Nùng như sau:
Trật tự | Định ngữ đứng trước | Danh từ trung tâm | Định ngữ đứng sau | ||||||
– 3 | -2 | -1 | +1 | +2 | +3 | ||||
Chỉ số lượng toàn thể | Chỉ số lượng chính xác | Xác định đơn vị | Xác định chủng loại | Chỉ đặc trưng tính chất | Miêu tả trạng thái | Chỉ định | Sở thuộc | ||
Thí dụ | Láo lúng (tất cả) | hả (năm) | ăn (cái) | rườn (nhà) | ngọa (ngoái) | cải (to) | ngám hêt (mới làm) | nẩy (này) | cúa hợp tac xạ (của hợp tác xã) |
Chú ý: Định ngữ ở vị trí +2 và +3 chưa thật cố định, đôi khi chúng có thể chuyển dịch cho nhau. Khi định ngữ chỉ sở thuộc không có quan hệ từ CÚA (của) thì NẨY (này), TỈ (kia)… thường thường ở vị trí +3, còn định ngữ sở thuộc lại ở vị trí +2. Ngược lại, định ngữ sở thuộc có quan hệ từ CÚA thì luôn luôn ở vị trí cuối cùng (+3) để khép kín cụm từ lại. Chính nhờ có sự sắp xếp như vậy mới không gây sự lầm lẫn giữa NẨY, TỈ là định ngữ của từ trung tâm với NẨY, TỈ là định ngữ của từ chỉ sở thuộc, và mới tránh được sự mập mờ.
So sánh:
(1) Bâư slửa NẨY cúa noọng… (cái áo này của em…) | (2) Bâư slửa cúa noọng nẩy … (cái áo của em này…) |
NẨY ở cụm từ (1) là định ngữ của từ trung tâm SLỬA (áo), ở cụm từ (2) là định ngữ của từ chỉ sở thuộc NOỌNG (em).
Thực ra bảng trên đây cho ta thấy khả năng có thể kết hợp được của một danh từ làm trung tâm với các loại từ khác để phụ nghĩa cho nó. Song, trong thực tế nói năng, chúng ta ít gặp một cụm từ đầy đủ như vậy, vì cách diễn đạt ngắn bao giờ cũng dễ hiểu, dễ tiếp thu hơn.