Ngữ pháp tiếng Tày Nùng – VII.II Thành phần biệt lập của câu

CHƯƠNG VII: MỞ RỘNG CÂU

VII.II THÀNH PHẦN BIỆT LẬP CỦA CÂU

Ngoài trạng ngữ, còn thành phần xen vào trong câu cốt để giải thích một từ, một cụm từ nào đó, hoặc để biểu thị thái độ, tình cảm của người nói hay người viết đối với sự việc nêu ra ở trong câu. Đấy thành phần biệt lập của câu. Thành phần biệt lập bao gồm nhiều loại khác nhau, dưới đây sẽ lần lượt nói đến từng loại một

1. ĐỒNG NGỮ

Sau một danh từ, đại từ xưng hô, người ta thể đặt một từ hay một số từ để nói rõ thêm sự vật các từ đó biểu thị ai, cái gì… Phần đặt sau ấy ĐỒNG NGỮ.

Thực ra, đồng ngữ chỉ một loại biến dạng của định ngữ. Đồng ngữ giống định ngữ ở chỗ cũng xác định cho danh từ, đại từ đứng trước . Song lại khác định ngữ ở hai điểmbản. Một , đồng ngữ không phụ thuộc vào từ xác định, cho nên về mặt ngữ pháp thì tồn tại một cách độc lập, ngang hàng với từ đứng ở đằng trước. Hai , sự vật do đồng ngữ biểu thị, đồng nhất với sự vật từ đứng trước biểu thị. Thí dụ:

Lục mền (con ) Cam (thằng cam) ở câu trên chỉ một sự vật đồng nhất. Cam đồng ngữ. Các phần in nghiêng trong những câu dưới đây cũng đồng ngữ.

2. LỜI CẢM THÁN

Lời cảm thán cũng thành phần biệt lập của câu dùng để bày tỏ thái độ, tình cảm của người nói, hoặc dùng để gọi đáp.

Để bày tỏ thái độ, tình cảm của mình, người nói thường dùng những thán từ RỔI (ái , gớm), Ò (à), ỔI (chà chà, úi chà)… Thí dụ:

Để gọi, Tiếng Tày – Nùng thường thường ghép những từ chỉ tên, những danh từ xưng hô, đại từ xưng hô với trợ từ ỚI (ơi), Ạ (ạ), NỎ (nhỉ); hoặc dùng những thán từ như VẨY (này, ô hay), (này này)…

Lời gọi thường đặt ở đầu câu những thỉnh thoảng trường hợp đặt ở cuối câu. Thí dụ:

Lời gọi trợ từ ỚI, Ạ, NỎ thường biểu thị sự âu yếm, kính trọng. Lời gọi thán từ VẨY, thường biểu thị sự thân mật, đôi khi suồng sã, cho nên chúng chỉ được dùng ở bậc ngang hàng hoặc người nhiều tuổi nói với người ít tuổi.

Để đáp lời, chúng ta hay dùng những trợ từ chỉ sự đồng ý như: ẦƯ (vâng), CHỬ (phải); hoặc dùng những tổ hợp do động từ, tính từ kết hợp với trợ từ (rồi), NỎ (nhỉ)… tạo thành. Lời đáp bao giờ cũng đứng ở đầu câu. Thí dụ:

Hiện nay người Tày – Nùng rất hay dùng từ THƯA, KÍNH THƯA của tiếng Việt. Từ THƯA kết hợp với các từ xưng hô để gọi khi muốn tỏ sự nghiêm trang, kính cẩn. được dùng nhiều hơn cả trong những lời thưa của học sinh đối với thầy giáo, hoặc trong những lời nói đầu khi phát biểu ở cuộc họp.

Còn từ CHIỀNG (thưa), CHIỀNG MỪA (kính thưa) của Tiếng Tày – Nùng chỉ hay gặp ở những tác phẩm văn học cổ hay những bài dân ca. Hiện nay một số người lại dùng hai từ tuần Tày – Nùng này song song với từ THƯA, KÍNH THƯA của tiếng Việt. Trong khẩu ngữ, từ trước đến nay, ở một số địa phương, vẫn dùng trong những câu nói hết sức trang trọng, trong những hoàn cảnh nói năng rất hạn chế.

3. LỜI CHÊM

Lời chêm tác dụng nói lên quan hệ của người nói đối với sự việc nêu ra trong câu; hoặc lời tác giả muốn ghi một chi tiết nào đó quan hệ đến một phần của câu hay cả câu. Vị trí của lời chêm không cố định, tùy theo công dụng sự cần thiết ở trong câu thể đứng ở đầu câu, ở cuối câu hay giữa câu. Thí dụ:

4. LỜI CHUYỂN TIẾP

Lời chuyển tiếp luôn luôn đặt ở đầu câu. Chúng tác dụng biểu thị sự chuyển tiếp giữa các đoạn văn dài. Trong Tiếng Tày – Nùng lời chuyển tiếp thường do những từ hay những cụm từ sau đây đảm nhiệm: PỆN TỈ (như thế), PỆN NẨY (như vậy, như thế), NHOÒNG PỆN NẨY (do đó), CHĂN LẠI (thực vậy), PHUỐI XỎN (nói tóm lại), NƯA ĐẠ PHUỐI (trên đã nói)…