Ngữ pháp tiếng Tày Nùng – Câu: IV.I Câu bình thường

CHƯƠNG III – CÂU

Các cách đặt câu

Khi chúng ta nói hay viết, không phải câu nào cũng giống câu nào. Thí dụ:

a)

một loại câu

b)

một loại câu khác

Hai loại câu trên tuy cùng thông báo một ý trọn vẹn, nhưng xét về mặt cấu tạo, chúng rất khác nhau. Những câu thuộc loại thứ nhất bao giờ cũng gồm hai phần, mỗi phần giữ một vai trò nhất định quan hệ chặt chẽ với nhau. Một phần thì nêu lên đối tượng, còn phần kia thì tường thuật về đối tượng đó. Ngược lại, những câu thuộc loại thứ hai không thể tách ra được như vậy. Chúng chỉ gồm một phần, ngay phần đó cũng không căn cứ khách quan để gọi phần nêu lên đối tượng hay phần báo về đối tượng. Loại câu do hai phần tạo thành gọi CÂU BÌNH THƯỜNG. Còn loại câu chỉ một phần gọi CÂU ĐẶC BIỆT.

Ta gọi như vậy dựa vào tính chất phổ biến của chúng trong sự nói năng. Câu bình thường rất phổ biến, trong khi nói cũng như khi viết. Câu đặc biệt thì ít xuất hiện cũng chỉ xuất hiện trong hoàn cảnh tương đối đặc biệt.

IV.I CÂU BÌNH THƯỜNG

Câu bình thường loại câu do một cụm từ chủ vị tạo thành. Thí dụ:

Đứng về mặt cấu tạo xét, những câu trên đều hai phần. Muốn chia các phần đó được khách quan, chúng ta thể đặt những câu hỏi, những từ dùng để hỏi :

1. Cầư? (ai?), tua răng? (con gì?), ăn răng? (cái gì?) đặt ở đầu câu hỏi

2. Hêt răng? (làm gì?), pền rừ? (thế nào?)… đặt ở cuối câu hỏi.

Phần nào trong câu bình thường trả lời cho loại câu hỏi thứ nhất gọi phần một. Phần nào trả lời cho loại câu hỏi thứ hai gọi phần hai. Áp dụng biện pháp ấy, ta thể chia các phần của những câu vừa nêu ở trên. Ta đặt câu hỏi:

Ta hỏi tiếp:

Như vậy, ta đã phân câu trên thành hai phần như sau:

Bất cứ câu bình thường nào cũng đều chia ra được hai phần như vậy, mỗi phần đều chức năng nhất định. Theo cách gọi thông thường trong ngữ pháp học, phần một gọi CHỦ NGỮ của câu, phần hai gọi VỊ NGỮ của câu.

1. CHỦ NGỮ

Chủ ngữ phần biểu thị sự vật hoạt động, trạng thái hay đặc điểm, bản chất được tường thuật ở bộ phận vị ngữ. Nói một cách khác, chủ ngữ đối tượng tường thuật của vị ngữ.

Chủ ngữ của câu bình thường thể một từ hoặc một cụm từ.

1.A Chủ ngữ những từ biểu thị người, vật và sự việc

1. B Chủ ngữ những từ dùng để trỏ, để hỏi

1.C Chủ ngữ những từ biểu thị hành động, trạng thái, tính chất

1.D Chủ ngữ những từ biểu thị hành động, trạng thái, tính chất.

1.E Chủ ngữ một cụm từ

Khi chủ ngữ một cụm từ thì những cụm từ ấy thường lấy những từ chỉ người, vật, sự việc hoặc những từ chỉ hoạt động trạng thái làm trung tâm. Ngoài ra, cụm từ cũng thể một tổ hợp của những từ chỉ số lượng. Thí dụ:

2. VỊ NGỮ

Vị ngữ phần quan trọng nhất trong câu bình thường. tường thuật về chủ ngữ. Vị ngữ cũng thể do một từ hoặc một cụm từ tạo thành.

2.A Vị ngữ những từ chỉ sự hoạt động, trạng thái, tính chất, hay thứ tự. Loại vị ngữ này bao giờ cũng đặt trực tiếp sau chủ ngữ.

2.B Vị ngữ những từ chỉ sự vật (người, vật, sự việc), những từ dùng để trỏ, những từ chỉ số lượng. Vị ngữ, do những loại từ trên đây biểu thị thường không đặt trực tiếp sau chủ ngữ, phải kết hợp với từ LẺ () (nhiều khi mượn thẳng từ của tiếng Việt), CHỬ (, phải).

Riêng những từ chỉ số lượng thể đặt sau từ PỀN (, thành); những từ biểu thị nghề nghiệp thường đặt sau HÊT (làm). Thí dụ:

2.C Vị ngữ làm một cụm từ. Vị ngữ cũng thể một cụm từ, từ trung tâm thể từ chỉ sự vật hay từ chỉ hoạt động, trạng thái, tính chất. Những vị ngữ này biểu thị nhiều mặt khác nhau như: Tuổi tác, thời gian, nơi chốn, xuất xứ hay đặc điểm sự vật. Cuối câu thường thêm những từ chỉ thái độ như: NẺ (đấy), CHẦY (cơ, thôi)… Để cho câu nói thêm thanh thoát nhịp nhàng. Thí dụ:

bản chất ngữ pháp của cụm từ phụ thuộc vào yếu tố trung tâm, nên những cụm từ làm vị ngữ trung tâm một từ chỉ hoạt động, tính chất thì luôn luôn trực tiếp đứng sau chủ ngữ, còn trung tâm một từ chỉ sự vật thì khi trực tiếp, khi gián tiếp đứng sau chủ ngữ, cũng đôi khi cả hai khả năng ấy.

Hai dụ (2) (3) vừa nêu trên thể thêm LẺ () vào giữa chủ ngữ vị ngữ. Ta cũng thể nói:

3. QUAN HỆ GIỮA CHỦ NGỮ VỊ NGỮ

Chủ ngữ vị ngữ hai phần nòng cốt của câu bình thường. Thường thì câu đầy đủ hai phần đó mới khả năng thông báo một ý trọn vẹn.

Câu Noọng slon slư (em học), nếu chỉ NOỌNG (em) thì người ta sẽ không biết NOỌNG làm gì. Nhưng nếu chỉ SLON SLƯ (học) không thôi, thì cũng không hiểu được ai học. Khi hoàn cảnh nói năng cho phép, người ta thể bỏ chủ ngữ, vị ngữ hay bỏ cả hai, đấy trường hợp rút gọn câu (Xem phần RÚT GỌN CÂU, ở sau)

4. TRẬT TỪ NGỮ PHÁP CỦA CHỦ NGỮ VỊ NGỮ

Về mặt trật tự, chủ ngữ bao giờ cũng đứng trước, vị ngữ đứng sau. Đó trật tự tương đối cố định không thể tùy tiện đảo lộn. Nếu chúng ta thay đổi trật tự đó, ý của câu hoặc sẽ thay đổi hoặc vô nghĩa. Thí dụ:

Câu trên đã thay đổi ý nghĩa khi ta thay đổi vị trí các phần trong câu.

Cân trên đã trở nên vô nghĩa khi ta thay đổi vị trí của hai phần.

Tuy vậy, không phải không hiện tượng đảo vị trí chủ ngữ vị ngữ của câu bình thường. Trong trường hợp đặc biệt, để nhấn mạnh cái ý nêu lên ở vị ngữ, người ta cũng thể đảo trật tự trên (xem phần Đảo ngược, ở các bài sau)