Ngữ pháp tiếng Tày Nùng – Từ: III.III Cấu tạo của từ

CHƯƠNG III – TỪ

III. III. CẤU TẠO CỦA TỪ

Xét theo sự mặt của các yếu tố nghĩa trong từ, thể chia từ trong Tiếng Tày – Nùng ra làm hai loại từ thuần từ ghép

1. TỪ THUẦN

Những từ chỉ cấu tạo bằng một đơn vị nhỏ nhất nghĩa từ vựng ( thể do một hay nhiều âm tiết tạo thành) từ thuần.

A. TỪ THUẦN MỘT ÂM TIẾT

Thí dụ: BÂN (trời), LỒM (gió), BƯƠN (tháng), KIM (vàng), MU (lợn), NGÀ (vừng), PJẠ (dao), CĂM (cầm).

Từ thuần một âm tiết rất dễ nhận nói chung không đáng tìm hiểu về cách cấu tạo của .

B. TỪ THUẦN NHIỀU ÂM TIẾT (chủ yếu hai âm tiết)

Một từ hai âm tiết trở lên, khi tách ra cả hai hay một âm tiết không nghĩa độc lập từ thuần nhiều âm tiết. Thí dụ:

B.1 Cả hai âm tiết đều không nghĩa

B.2 Một âm tiết nghĩa, một âm tiết không nghĩa

Trong loại này âm tiết nghĩa thường đứng trước, âm tiết không nghĩa đứng sau (trong một số ít từ, hiện tượng ngược lại). Nói cho đúng đây loại từ trung gian giữa từ thuần từ ghép. Thí dụ:

Âm tiết đứng trước nghĩa, âm tiết đứng sau không nghĩa

Âm tiết sau nghĩa, âm tiết trước không nghĩa

Trong các từ thuần hai âm tiết của Tiếng Tày – Nùng, một bộ phận quan trọng cấu tạo bằng cách láy âm. Đặc điểm của chúng quan hệ ngữ âm với nhau rất chặt chẽ, các âm tiết trong từ phải 1) phụ âm đầu như nhau, hay 2) vần thanh điệu như nhau. Thí dụ:

2. TỪ GHÉP

A. TỪ GHÉP

Một từ do hai hay trên hai đơn vị ý nghĩa từ vựng hợp thành gọi từ ghép. Từ ghép một khối thống nhất hoàn chỉnh về mặt cấu tạo về mặt ý nghĩa. Cho nên, nói chung không thể tìm hiểu ý nghĩa của từ ghép một cách giản đơn cộng những ý nghĩa hợp thành lại được. Thí dụ:

B. PHÂN LOẠI TỪ GHÉP

Từ ghép Tiếng Tày – Nùng thể chia làm hai loại lớn: Loại không mang bán phụ tố loại mang bán phụ tố (Bán phụ tố sẽ nói rõ sau).

Từ ghép không bán phụ tố thể chia làm ba lớp nhỏ.

B.1 Từ ghép theo quan hệ chính phụ

Đây loại từ ghép thường thấy nhất trong Tiếng Tày – Nùng. Những từ thuộc loại này được cấu tạo theo trật tự: Yếu tố chính chỉ sự vật hay hoạt động khái quát đứng trước; yếu tố phụ làm chức năng bổ ngữ đứng sau. Thí dụ:

B.2 Từ ghép theo quan hệ liên hợp

Những từ ghép kiểu này thường được tạo thành bằng hai yếu tố gần nghĩa hoặc trái nghĩa nhau. Quan hệ giữa các yếu tố ngang hàng, nhưng về mặt cấu tạo lại phải theo một trật tự nhất định, không thể đảo các yếu tố tạo thành một cách tùy tiện được (trừ khi yêu cầu cần thiết về tu từ hay cách gieo vần trong bài thơ).

Từ ghép liên hợp hai yếu tố gần nghĩa, thí dụ:

B.3 Từ ghép theo quan hệ chủ vị

Trong loại từ ghép này, yếu tố đóng vài trò chủ ngữ đứng trước, yếu tố đứng sau đóng vai trò vị ngữ dùng để nói rõ hay miêu tả đặc tính của yếu tố đứng trước. Thí dụ:

(Chú thích: Cũng thể coi hàng loạt từ trong lớp này từ cấu tạo theo quan hệ chính phụ)

B.4 Từ ghép mang bán phụ tố

Tiếng Tày – Nùng một loại từ cấu tạo khá đặc biệt, ở đây tạm gọi từ ghép mang bán phụ tố. Trong hai thành phần tạo thành loại từ ghép này, một thành phần ý nghĩa từ vựng rõ ràng đóng vai trò chủ chốt của từ. Phần còn lại, ý nghĩa từ vựng thường khôngràng, thường chỉ nghĩa hư. Đó phần bán phụ tố (Chú thích: Chúng tôi gọi bán phụ tố, chứ không phải phụ tố thực sự, những yếu tố này không đặc tính hoàn toàn giống như các phụ tố trong các tiếng Ấn – Âu).

Bán phụ tố khả năng kết hợp rộng rãi với những từ (hoặc yếu tố) cùng loại. Bản thân không đóng vai trò chính của từ chỉ phụ thuộc vào thành phần chính.

Tất cả các bán phụ tố trong Tiếng Tày – Nùng đều đứng trước thành phần chính. Đứng về lịch sử xét thì những bán phụ tố ngày nay, trước đây hầu hết đều những từ nghĩa thực. Nhưng do sự phát triển của ngôn ngữ, nghĩa của trong từ ghép đã bị lu mờ đi.

Những bán phụ tố một ý nghĩa từ vựng nhất định. Thí dụ:

HÊT (làm)

PỀN (thành, nên, xảy ra)

SLĂC (… nào đó, …. gì cả,… bao giờ)

Chú ý: Cần phân biệt hai từ HÊT PỀN bình thường, với HÊT PỀN bán phụ tố.

4.1 HÊT: Bình thường làm từ tường thuật, như HÊT RƯỜN (làm nhà), HÊT PJẦU (nấu cơm chiều)… thì không thể nhập một với hêt bán phụ tố. lúc đóhêtnằm trong kết cấu không chặt chẽ, thể tách ra sử dụng hay xen thành phần khác vào giữa một cách dễ dàng. Thí dụ, HÊT RƯỜN thể nói HÊT KỈ ĂN RƯỜN (làm mấy cái nhà); trái lại HÊT bán phụ tố không thể tách ra như thế được.

4.2 PỀN: Bình thường đi sau loại từ chỉ hành vi động tác thường để chỉ kết quả, chúng cũng không kết cấu chặt chẽ. Như, KHẨU ÁI PỀN (lúa, cơm sắp chín), HÊT PỆN CHẮNG PỀN (làm thế mới phải)… đều không phải PỀN bán phụ tố.

Những từ ghép mang bán phụ tố nghĩa trừu tượng thường thấy nhất những bán phụ tố của những từ chỉ về thời gian hoặc thứ tự của chữ số. Thí dụ:

TẰNG Tằng vằn (ban ngày)
Tằng cừn (ban đêm)
Tằng nâư (buổi sáng)
CẠY Cạy xo (thượng tuần)
Cạy slip (trung tuần)
Cạy nhỉ (hạ tuần)
XO Xo êt (mùng một)
Xo nhỉ (mùng hai)
Xo slam (mùng ba)
Xo slip (mùng mười)
TẢI Tải êt (thứ nhất)
Tải nhỉ (thứ hai)
Tải slam (thứ ba)
Tải slip (thứ mười)

Chú ý: Trong cách đếm truyền thống của người Tày – Nùng trước đây, để cấu tạo số từ thứ tự, bán phụ tố TẢI đứng trước số từ tự nhiên thường chỉ hạn chế từ thứ nhất đến thứ mười. Hiện tượng dùng vượt quá mười như TẢI SLIP HẢ (thứ 15), TẢI SLOONG PAC XÔC SLIP XÔC (thứ 266)… rất ít thấy. Cho tới nay, cách dùng TẢI bán phụ tố để tạo số thứ tự trên mười mới dần được sử dụng.

Bán phụ tố”: Bán phụ tố này thường xuất hiện khi hai hay trên hai sự vật, sự việc nảy sinh mối quan hệ tương hỗ với nhau. Thí dụ:

Trong thực tế nói năng, loại từ ghép bán phụ tố này thường được dùng kèm với đại từ tương hỗ CĂN (nhau). Về vị trí thì vẫn đứng trước CĂN đứng sau. Nghĩa được đan theo khuôn + X + CĂN ( X ở đây phải một yếu tố chỉ hành vi, động tác, thường đơn tiết). Thí dụ:

Trong khi khuôn này hai X (hai động tác) liên tiếp thì nhất thiết phải đại từ CĂN xen vào giữa, nếu không kết cấu này sẽ không đứng vững được.

Tức chỉ thể nói

Chứ không kiểu nói theo khuôn

Trong bất cứ kết cấu tương hỗ nào, nếu đã đại từ CĂN thì đều thể bỏ bán phụ tố . Quan hệ đan chéo của kết cấu tương hỗ CĂN thể hình dung như sau:

Hình thức ít tồn tại độc lập Hình thức tồn tại độc lập
+ x 1 + x 2 + x 1 + căn + x 2 x 1 + căn + x 2
hưa hêt hưa căn hêt Hưa căn hêt (giúp nhau)
cạ slon cạ căn slon Cạ căn slon (bảo nhau học)
chùa kin chùa căn kin Chùa căn kin (mời nhau ăn)

Ngoài ra còn thể đứng trước một số động từ phương hướng. Khi đó, nghĩa của hoàn toàn hư hóa. Thí dụ: