CHƯƠNG V: CÁC LOẠI TỪ
V.II ĐỘNG TỪ
II.1 ĐỊNH NGHĨA
Động từ là những từ biểu thị các hoạt động (động tác, hành vi, biến hóa), và trạng thái của sự vật, có đặc điểm ngữ pháp là:
(a) Khi làm vị ngữ trong câu bình thường, không cần có các từ LẺ (là), HÊT (làm), PỀN (là, thành).
(b) Trong cụm từ chính phụ, có thể đặt trước từ DÁ (rồi), và đặt sau các từ chỉ thời gian khác, như NGÁM (vừa), ĐANG SLÍ (đang), CỎI (sẽ, hãy) (1). Thí dụ:
- Noọng hung khẩu (em nấu cơm)
- Pú mà dá (ông về rồi)
- Te đang slí hêt (nó đang làm)
- Nẳm đây cỏi phuối (nghĩ kỹ sẽ nói)
Chú thích (1): Hầu hết các động từ đều kết hợp với CỎI (sẽ); trừ một số động từ chỉ sự hoạt động tâm lý như: ĐIÊP (yêu), DAU (lo), LAO (sợ), SLÍNH (tức), NĂT (thích)…
II.2 CÁC LOẠI NHỎ TRONG ĐỘNG TỪ
Động từ là một loại từ tương đối phức tạp. Ta cần tiếp tục phân nó ra thành một số loại nhỏ nữa để tiện cho việc nghiên cứu các loại cụm từ sau này. Căn cứ vào khả năng vận dụng trong chuỗi lời nói, trước hết ta phân động từ thanh hai loại lớn: Nhóm động từ không độc lập và nhóm động từ độc lập
II.2.A NHÓM ĐỘNG TỪ KHÔNG ĐỘC LẬP
Nhóm động từ này ít dùng riêng một mình. Khi làm thành phần của câu bình thường, chúng thường hay đi kèm một từ khác. Dưới đây là một số loại nhỏ trong nhóm động từ không độc lập.
II.2.A.1 Động từ chỉ quan hệ
Đó là động từ LẺ (là) và một số động từ chỉ sự biến hóa, so sánh, như: PỀN (thành, nên), PJẾN (biến), PỆN, BẶNG (như), TÁY (bằng)… Từ LẺ dùng để cấu tạo vị ngữ do danh từ hoặc một số từ khác đảm nhiệm. Thí dụ:
- Việt Băc lẻ ăn ứ cúa Cách mạng (Việt Bắc là cái nôi của Cách mạng)
- Te lẻ lục áo khỏi (nó là con của chú tôi)
- Phuối lẻ chử á (nói là đúng rồi)
Những từ chỉ biến hóa, so sánh thì có tác dụng nêu lên rằng: những từ đứng sau nó thường biểu thị kết quả biến hóa hay biểu thị hình tượng so sánh. Thí dụ:
- Bâư mạy pjến pền khún (lá cây biến thành phân)
- Phải đen bặng bjooc ngần (vải đỏ như hoa râm bụt)
- Hêt pền việc cải (làm nên sự nghiệp lớn)
II.2.A.2 Động từ chỉ ý chí – khả năng kết quả
Những động từ thuộc loại này thường kết hợp với một từ khác (chủ yếu là động từ) để tạo nên phần vị ngữ của câu bình thường. Bản thân chúng xác định thêm: Sự cần thiết, sự mong muốn, hoặc khả năng kết quả.
Căn cứ vào vị trí so với từ mà những động từ ý chí – khả năng kết quả đi kèm, ta chia chúng ra làm ba loại:
(a) Loại luôn luôn đứng trước
LÈO (phải, nên), THUC (bị), ĐI, CẢM (dám), NĂT, HỨN (thích), SLƯỞNG (định), ƯỞM (liệu), MÌ THỂ (có thể), LAO TỐ (có lẽ), NHẲN (chịu)…
Thí dụ:
- Tằng bại LÈO pây (tất cả phải đi)
- Noọng HỨN slon hat (em thích học hát)
- Chài ƯỞM hap tứn mí? (anh liệu có gánh nổi không?)
(b) Loại luôn luôn đứng sau
THÂNG (đến), TẦƯ (phải), HĂN (thấy) (trong phạm vi chỉ khả năng kết quả)… Thí dụ:
- Đêch néng THÂNG (trẻ với tới)
- Te xa HĂN dá (nó tìm thấy rồi)
(c) Loại có thể đứng trước, đứng sau đều được nhưng ở hai vị trí khác nhau, nghĩa có thể khác nhau: ĐẢY (được), MẺN (phải, bị, trúng)…
ĐẢY đứng trước từ nó đi kèm thì chỉ sự bị động, sự được ghép, còn đứng sau thì chỉ ra khả năng kết quả.
So sánh:
Chài đảy pây (anh được đi)
Cầư tố đảy hêt (ai cũng được làm) |
Chài pây đảy (anh đi được)
Cầư tố hêt đảy (ai cũng làm được) |
Cũng có trường hợp, ĐẢY đứng sau hay đứng trước một số động từ đều chỉ ra khả năng kết quả. Thí dụ:
- Cặn lai bấu đảy to (bằng ấy không được đựng = bằng ấy không đựng được)
- Cặn lai bấu to đảy (bằng ấy không đựng được)
MẺN đứng trước từ nó đi kèm thì chỉ ra sự bị động, đứng sau thì lại chỉ kết quả.
- Te mẻn bẳn (nó bị bắn)
- Te bẳn mẻn (nó bắn trúng)
Chú ý: Một số động từ thuộc nhóm không độc lập cùng một gốc với một số động từ độc lập (có thể một mình làm vị ngữ trong câu bình thường). Ý nghĩa của hai từ cùng gốc không hoàn toàn giống nhau. Thí dụ:
Từ HĂN (thấy) khi dùng độc lập như trong câu TE HĂN NGỎ (nó thấy tôi) thì có nghĩa “sự nhận ra bằng mắt”; còn HĂN khi không dùng độc lập như trong thí dụ: TE XA HĂN DÁ (nó tìm thấy rồi) thì chỉ nói lên kết quả của hành động.
II.2.A.3 Động từ chỉ phương hướng
Động từ phương hướng là những động từ đứng sau một động từ khác để xác định phương hướng của hoạt động. Bản thân chúng vốn là những động từ chuyển động có hướng có thể dùng độc lập trong câu. So sánh:
(1) | (2) |
Khỏi thư pây nó (tôi mang đi nhé) | Khỏi pây nớ (tôi đi nhé) |
Mẻ hap mà dá (mẹ gánh về rồi) | Mẻ mà dá (mẹ về rồi) |
Cần hăp khẩu, cần khay ooc (kẻ đóng lại, người mở ra) | Cần khảu, cần ooc (kẻ vào người ra) |
Qua sự so sánh trên đây, ta thấy rằng: cũng như những động từ khả năng kết quả, những động từ phương hướng ở hai cách dùng khác nhau, ý nghĩa của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau.
PÂY, MÀ, OOC (đi, về, ra) thuộc loại ví dụ (1) chỉ ra phương hướng của những hoạt động khác nhau; còn như ở những ví dụ thuộc loại (2) thì chỉ “sự rời đi”.
Những động từ phương hướng trong Tiếng Tày – Nùng như PÂY (đi), MÀ (về, đến), mừa (về, hướng đi lên), ooc (ra), khảu (vào), khửn (lên), lồng (xuống), tẻo (lại), khảm (qua, sang)…
Căn cứ vào hướng chuyển động so với vật làm chuẩn, ta có thể phân động từ hướng ra làm hai loại:
(a) Loại thứ nhất chỉ hướng chuyển động so với người nói; người nói có thể không phải là vật gây ra sự hoạt động, cũng có khi chính là vật gây ra sự hoạt động. Đó là những từ:
PÂY bao giờ cũng chỉ hướng ra xa người nói, thường là đi về phía có địa hình thấp hoặc đi đến nơi xa lạ khó xác định phương hướng. Ngoài ra, nó còn biểu thị những ý nghĩa khác khi đặt sau một số động từ chỉ hành vị, như sự hủy bỏ, sự mất đi….
- Lẻn ooc cằn tả pây (chạy ra bờ sông đi = chạy ra bờ sông)
- Đính bẳng nặm pây (đổ ống nước đi)
- Te lừm pây (nó quên đi)
MỪA cũng chỉ hương đi xa người nói, nhưng đi lên phía có địa hình cao hơn.
- Bec khửn rườn mừa (vác lên nhà về = vác lên nhà)
- Pin khửn mừa (leo lên về = leo lên)
MÀ luôn luôn chỉ hướng đi đến gần người nói, không phụ thuộc vào địa hình cao thấp, hay đi từ địa điểm mới lạ đến địa điểm quen thuộc của người nói.
- Nhình pây háng mà (chị đi chợ về)
- Hỉu khẩu rườn mà (mang vào nhà về = mang vào nhà)
(b) Loại thứ hai, chỉ hướng rời của hoạt động so với địa hình (cao, thấp, quang, rậm…)
OOC biểu thị phương hướng từ trong ra ngoài, từ chỗ hẹp ra chỗ rộng, từ chỗ cách bức ra chỗ quang đãng, từ chỗ tối ra chỗ sáng.
- Fạ rủng ooc (trời quang ra)
- Khay tu ooc (mở cửa ra)
- Nặm luây ooc mà (nước chảy ra về = nước chảy ra)
KHẢU biểu thị phương hướng ngược lại với OOC
- Fạ đăm khảu (trời tối sầm lại)
- Hăp tu khảu (đóng cửa lại)
- Đính nặm khảu coong (đổ nước vào chum)
KHỬN biểu thị phương hướng từ thấp lên cao.
- Nhò khửn (nhấc lên)
- Nẳng khửn tềnh mừa (ngồi lên trên về = ngồi lên trên)
LỒNG biểu thị phương hướng ngược lại với KHỬN
- Xẻ lồng (kéo xuống)
- Phjải lồng mà (bước xuống về = bước xuống)
TẺO biểu thị phương hướng quay về nơi xuất phát hay trở lại sự việc đã qua
- Ngoặc tẻo (quay lại)
- Toọc tẻo (đọc lại)
KHẢM biểu thị phương hướng vượt qua chướng ngại hoặc chuyển động theo chiều ngang.
- Phjải khảm nả (đi qua trước mặt)
- Lòi khảm tả (bơi qua sông)
II.2.B NHÓM ĐỘNG TỪ ĐỘC LẬP
Động từ độc lập là những động từ có thể dùng riêng một mình được để tạo thành các phần trong câu bình thường. Nhóm động từ này chiếm một số lượng rất lớn trong số động từ của Tiếng Tày – Nùng. Nội bộ của nhóm này cũng không thuần nhất. Nếu căn cứ vào khả năng chi phối của chúng đối với các loại từ khác nhau, ta có thể phân chúng thành những loại nhỏ sau: Động từ hành vi, động từ trạng thái, động từ chỉ sự tồn tại hoặc mất đi.
II.2.B.1 Động từ hành vi
Những động từ thuộc nhóm này thường biểu thị hành động hướng tới đối tượng khách quan. Vì vậy, khi làm vị ngữ của câu bình thường, sau những động từ đó thường có từ chỉ ra đối tượng bị chi phối. Thí dụ:
- Vài kin nhả (trâu ăn cỏ)
- Chài hẳm mạy (anh chặt cây)
Khi hoàn cảnh nói cho phép (nhất là trong đối đáp) nhiều khi, sau những động từ hành vi không có từ chỉ đối tượng chi phối. Thí dụ:
- Te kin dá (nó ăn rồi)
- Mọi cần hêt lẹo (tất cả mọi người đều làm)
- Lan toọc nớ? (cháu đọc nhé?)
Dưới đây là một số động từ hành vi:
Kin (ăn), hẳm (chặt), hêt (làm), tụp (đánh), ham (khiêng), chut (đốt), hen (chăn, giữ), dương (thăm), khả (giết), chiếm, mủng (xem), roọng (gọi), tỉnh (nghe), slon (học), cạ (bảo), xoi (khiến), tẹp (đuổi)…
Trong động từ hành vi ta cần chú ý đến một số động từ có ý nghĩa phát nhận thường đòi hỏi hai đối tượng: Một đối tượng chỉ sự tiếp nhận, một đối tượng chi phối. Đấy là những động từ: Hẩư (cho), doại (đưa, tặng), phac (gửi), dưm (mượn), lịnh (vay), pjá (trả), slau (thu), nỉ (nợ)… Thí dụ:
- Te phac ngỏ kỉ mưn ngần (nó gửi tôi mấy đồng bạc)
- Thày hẩư khỏi hả điểm (thầy cho tôi năm điểm)
- Boong te dưm rầu sloong khon xec (chúng nó mượn mình hai quyển sách)
II.2.B.2 Động từ trạng thái
Động từ trạng thái biểu thị trạng thái của người, động vật, vật vô sinh. Chúng không thể có đối tượng chi phối. Thí dụ:
- Noọng nòn (em ngủ)
- Nộc bên (chim bay)
- Môc chêp (bụng đau)
Những động từ thuộc loại này như:
- Nẳng (ngồi), nòn (ngủ), dặng (đứng), pây (đi), phển, lẻn (chạy), bên (bay), ni (trốn), lộm (ngã)…
- Chêp (đau), cừn (đau buốt), slep, tot (buốt), mày (nhức), mầu (say), lửa (lác), bot (mù), nuôc (điêc), đỉn (ngất)…
II.2.B.3 Động từ chỉ sự tồn tại, mất đi
Động từ chỉ sự tồn tại, mất đi: Đấy là một số ít động từ mà đằng sau chúng có thể có những từ bổ ngữ chỉ sự vật tồn tại hoặc mất đi. Những từ bổ ngữ này có thể dễ dàng đảo lên trước động từ để trở thành chủ ngữ. So sánh:
(1) Te nhằng chèn (nó còn tiền) | (2) Chèn te nhằng (tiền nó còn) |
Ái mì xe rừ a (sắp có xe rồi đấy) | Xe ái mì rừ a (xe sắp có rồi đấy) |
Lẹo fừn (hết củi) | Fừn lẹo (củi hết) |
Tôc cúa (mất của) | Cúa tôc (của mất) |